Hệ Thống Parabol SAR Và Hệ Thống Di Chuyển Có Hướng

HỆ THỐNG PARABOL SAR VÀ HỆ THỐNG DI CHUYỂN CÓ HƯỚNG

 

Hệ thống Parabol SAR

Hệ thống Parabol SAR của J. Welles Wilder Jr là một hệ thống đảo chiều thời gian / giá. Chữ “SAR” là viết tắt của cum từ “Stop and Reverse”. Đây là một hệ thống giao dịch theo xu hướng.

Cái tên này bắt nguồn từ việc các lệnh dừng kéo dài thành vệt giống như một đường cong parabol. Chú ý, khi giá có xu hướng tăng cao hơn, các chấm nằm ở phía dưới đường giá có khuynh hướng bắt đầu tăng chậm rồi sau đó tăng tốc cùng với xu hướng. Trong một xu hướng giảm, điều tương tự xảy ra theo chiều ngược lại (các chấm nằm ở phía trên đường giá). Các con số SAR được tính toán và cập nhật vào ngày hôm sau.

Yếu tố gia tốc có trong mô hình của Wilder. Mỗi ngày các điểm di chuyển theo hướng của xu hướng mới. Đầu tiên, sự di chuyển của các điểm tương đối chậm để cho phép thời gian của xu hướng được thiết lập. Khi yếu tố gia tốc tăng lên, đường SAR bắt đầu di chuyển nhanh hơn và cuối cùng bắt kịp với diễn biến giá. Nếu xu hướng mất đi sức mạnh, hoặc không thể hình thành thì kết quả là sự xuất hiện của một tín hiệu dừng và đảo chiều. Hệ thống Parabol hoạt động cực kỳ hiệu quả trong thị trường có xu hướng. Chú ý, hệ thống xuất hiện hiện tượng răng cưa trong thời kỳ đi ngang hoặc không có xu hướng.

Hình 1. Hình Parabol SAR là đường chấm trên đồ thị. Tín hiệu mua xuất hiện khi đường SAR bên trên chạm đường giá (mũi tên thứ nhất – bên trái). Chú ý cách SAR tăng tốc về phía trước trong đợt hồi phục và bắt kịp gần như cả xu hướng tăng. Hiện tượng răng cưa nhỏ phía trên bên phải lập tức được điều chỉnh. Hệ thống này có hiệu quả khi có xu hướng.

Hình 2. Bản đồ thị trên cho thấy khía cạnh tốt và không tốt của đường Parabol SAR và bất cứ hệ thống giao dịch có xu hướng nào. Chúng hoạt động hiệu quả trong những giai đoạn có xu hướng (là phần bên trái và bên phải của đồ thị), nhưng lại vô dụng trong khoảng thời gian từ tháng Tám đến tháng Một năm sau. (Tâm’s note: hiện tượng răng cưa, không có xu hướng).

Hình 3. Parabol có thể được sử dụng trong đồ thị tháng để quan sát xu hướng chính. Tín hiệu bán năm 1994 tiếp nối bằng một tín hiệu mua vào cuối mùa hè. Ngoại trừ một răng cưa năm 1996, hệ thống này gần như hoạt động rất tốt trong 4 năm.

Hình 4. Parabol áp dụng trên đồ thị tuần của Dell. Sau khi thể hiện tích cực suốt năm 1997, một tín hiệu bán xuất hiện trong tháng 10. Tín hiệu này bị đảo chiều (tín hiệu mua xuất hiện) vào cuối năm 1997.

Hệ thống vận hành tốt trong những giai đoạn có xu hướng rõ ràng, theo ước tính của Wilder là 30%. Nếu ước lượng đó khá gần thực tế, thì hệ thống giao dịch theo xu hướng sẽ không hoạt động khoảng 70% thời gian còn lại.

Làm thế nào để giải quyết vấn đề này?

Chỉ số DMI và ADX

Có một giải pháp khả thi là sử dụng bộ lọc hoặc một công cụ xác định liệu thị trường có đang đi theo một xu hướng nào không. Đường ADX (Average Directional Movement Index – là chỉ báo thể hiện thị trường đang trong trạng thái cho xu hướng hay không có xu hướng) của Wilder đánh giá di chuyển có hướng của các thị trường theo thang điểm từ 0 đến 100. Đường ADX tăng tức là thị trường đang theo xu hướng và thích hợp cho một hệ thống theo xu hướng. Một ADX giảm chứng tỏ một thị trường không có xu hướng, vốn không nên được dùng cho những phương pháp tiếp cận theo xu hướng.

Hình 5. Đường ADX đo lường mức độ di chuyển có hướng. Một sự giảm xuống từ trên mức 40 (mũi tên bên trái) cho tín hiệu về giai đoạn giao dịch không có xu hướng. Một sự tăng lên từ dưới mức 20 (mũi tên bên phải) cho tín hiệu về giai đoạn có xu hướng.

Bởi vì đường ADX có tỷ lệ từ 0 đến 100, nhà giao dịch theo xu hướng có thể đơn giản giao dịch ở những thị trường có xếp hạng giá trị xu hướng cao nhất. Hệ thống không có xu hướng (như chỉ số đo dao động) có thể được sử dụng trên thị trường có mức độ dịch chuyển có hướng thấp.

Di chuyển có hướng có thể được sử dụng hoặc như một hệ thống của chính nó hoặc như một bộ lọc cho đường Parabol hay bất kỳ hệ thống giao dịch theo xu hướng khác. Hai đường được tạo ra từ nghiên cứ DMI (chỉ báo di chuyển có hướng), đò là +DI và -DI. Đường +DI đo lường giá trị dương (tăng) của diễn biến giá và đường -DI đo lường giá trị âm (giảm) của diễn biến giá. Hình 6 minh họa hai đường này. Đường đậm là đường +DI, đường nhạt là đường -DI. Một tín hiệu mua xuất hiện khi đường +DI cắt lên phía trên đường -DI và một tín hiệu bán xuất hiện khi đường +DI cắt xuống phía dưới đường -DI.

Hình 6 minh họa cả hệ thống Parabol và hệ thống di chuyển có hướng. Parabol là hệ thống nhạy cảm hơn, tức là các tín hiệu xuất hiện thường xuyên và sớm hơn. Tuy nhiên, việc sử dụng đường di chuyển có hướng như một bộ lọc, sẽ tránh được nhiều tín hiệu sai trong parabol bằng cách chỉ đi theo những tín hiệu có cùng hướng với hướng vận động. Hai đường Parabol và đường di chuyển có hướng nên được sử dụng cùng nhau, trong đó đường di chuyển có hướng hoạt động như một bộ lọc cho đường Parabol nhạy cảm.

Hình 6. Đường hướng vận động (đồ thị dưới) có thể được sử dụng cho một bộ lọc của đường Parabol (đồ thị trên). Khi đường +DI ở phía trên đường -DI (xa bên trái và bên phải đồ thị) thì mọi tín hiệu bán trên đường Parabol đều bị bỏ qua. Việc này sẽ loại bỏ những hiện tượng răng cưa trong giai đoạn hồi phục (đi ngang).

Thời điểm tốt nhất để sử dụng hệ thống theo xu hướng, đó là khi đường ADX tăng lên (xem hình 7 và 8). Tuy nhiên cần phải luôn ghi nhớ, khi đường ADX bắt đầu giảm từ trên mức 40, đó là một dấu hiệu cảnh báo sớm về việc xu hướng đang yếu đi. Sự tăng lên của ADX nằm trên mức 20 thường là một tín hiệu khởi đầu cho một xu hướng mới (Về cơ bản, đường ADX là sự chênh lệch giữa 2 đường +DI và -DI).

Hình 7. Đường ADX 14 tuần đạt đỉnh vào đầu năm 1996 kể từ khi vượt qua mốc 40, và bắt đầu khởi động 18 tháng giao dịch nằm ngang đối với các cổ phiếu của công ty công ích. Đường ADX tăng lại vào mùa hè năm 1997 từ dưới mức 20, báo hiệu tằng cổ phiếu của các công ty công ích tăng.

Hình 8. Một đường ADX được đặt vào đồ thị tháng của chỉ số dầu AMEX. ADX đạt đình ở mức trên 40 năm 1990, kết thúc chuỗi ngày tăng của giá dầu. Việc tăng trở lại của đường ADX từ duới mức 20 bắt đầu từ năm 1995 đánh dấu sự kết thúc của 4 năm giao dịch nằm ngang và các cổ phiếu liên quan đến dầu mỏ và sau đó đã phát hiện ra điểm khởi đầu của một xu hướng mới.

Để lại một bình luận