BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
C7. BC KQ HĐKD – NƠI WARREN BẮT ĐẦU
Warren chia thế giới kinh doanh thành hai nhóm khác nhau:
- Nhóm thứ nhất là những công ty có lợi thế cạnh tranh dài hạn bền vững hơn các đối thủ cạnh tranh. Đây là các doanh nghiệp mà nếu ông có thể mua cổ phiếu với mức giá hợp lý hoặc tốt hơn thì ông sẽ trở thành tỷ phú nếu giữ chúng đủ lâu.
- Nhóm còn lại là tất cả các doanh nghiệp tầm thường đang vùng vẫy năm này qua năm khác trong một thị trường cạnh trạnh, khiến chúng trở thành một khoản đầu tư dài hạn tồi tệ.
Với Warren, nguồn gốc của lợi nhuận luôn quan trọng hơn bản thân khoản lợi nhuận đó.
C8. DOANH THU
Bản thân con số tổng doanh thu không cho cúng ta biết được gì, cho đến khi trừ đi các chi phí và tìm được lợi nhuận thuần.
C9. GIÁ VỐN HÀNG BÁN
Còn được gọi là Chi phí của doanh thu.
Giá vốn hàng bán là chi phí mua hàng hóa để công ty bán lại, hoặc là chi phí nguyên vật liệu và lao động được sử dụng để sản xuất các sản phẩm. Tên gọi “Chi phí của doanh thu” thường được sử dụng thay cho “Giá vốn hàng bán” nếu đó là công ty cung cấp dịch vụ chứ không phải công ty sản xuất. Về bản chất thì chúng giống nhau, nhưng “Chi phí của doanh thu” có vẻ là cách gọi toàn diện hơn.
C10. LỢI NHUẬN GỘP / TỶ SUẤT LỢI NHUẬN GỘP
Các công ty có lợi thế kinh tế dài hạn tuyệt vời đang kinh doanh trong lĩnh vực quen thuộc có xu hướng có được tỷ suất lợi nhuận gộp ổn định cao hơn những công ty không có lợi thế.
Có một quy luật chung (cũng có ngoại lệ) là các công ty có tỷ suất lợi nhuận gộp là 40% hoặc cao hơn có xu hướng là những công ty có lợi thế cạnh tranh bền vững. Các công ty có tỷ suất này thấp hơn 40% thường thuộc các ngành có tỷ suất cạnh tranh cao, nơi mà sự cạnh tranh đe dọa tỷ suất lợi nhuận tổng thể (cũng có những trường hợp ngoại lệ). Tỷ suất lợi nhuận gộp nhỏ hơn hoặc bằng 20% thường là dấu hiệu của một ngành có sự cạnh tranh gay gắt, khi không có công ty nào có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững hơn đối thủ.
Tâm’s notes:
- GPM ≥ 40%: lợi thế cạnh tranh bền vững (có ngoại lệ)
- GPM < 40%: công ty thuộc ngành có tính cạnh canh cao (có ngoại lệ)
- GPM ≤ 20%: ngành có sự cạnh tranh gay gắt.
Việc đánh giá tỷ suất lợi nhuận gộp không đảm bảo an toàn chắc chắn, nhưng nó lại là một trong những chỉ số đầu tiên cho thấy công ty đang được xem xét có lợi thế cạnh tranh dài hạn nhất quán hay không. Nên theo dõi tỷ suất lợi nhuận gộp hàng năm trong suốt 10 năm vừa qua, để chắc chắn có “sự nhất quán”.
Hiện nay một số công ty có tỷ suất lợi nhuận gộp cao có thể đi chệch theo một số hướng và bị mất đi các lợi thế cạnh tranh dài hạn. Thứ nhất là chi phí nghiên cứu quá lớn, tiếp theo là chi phí bán hàng và quản lý lớn, và thứ ba là chi phí tiền lãi cao. Bất kỳ một trong ba chi phí này đều có thể hủy diệt ưu thế kinh tế dài hạn của doanh nghiệp. Chúng được gọi là chi phí hoạt động kinh doanh và là những cái gai bên trong mỗi doanh nghiệp.
C11.
C12. CHI PHÍ BÁN HÀNG VÀ CHI PHÍ QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP
Các công ty không có lợi thế cạnh tranh bền vững phải chịu sự cạnh tranh khắc nghiệt và cho thấy sự dao động rất lớn trong tỷ lệ chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp so với lợi nhuận gộp.
Nếu chi phí này dưới 30% thì được xem là tuyệt vời. Tuy nhiên, chi phí này của một số công ty có lợi thế cạnh tranh bền vững cũng trong khoảng 30% đến 80%. Nhưng nếu chúng ta thấy một công ty có biểu hiện lặp đi lặp lại chi phí này gần 100% hoặc vượt quá 100% thì có nghĩa là chúng ta đang giao dịch với một công ty thuộc ngành có tính cạnh tranh cao, khi không doanh nghiệp nào có lợi thế cạnh tranh bền vững.
Tránh xa những công ty đang khốn khổ vì có chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp luôn duy trì ở mức cao.
Lợi thế kinh tế của các công ty có chi phí bán hàng và quản lý thấp cũng có thể bị triệt tiêu bởi chi phí nghiên cứu và phát triển đắt đỏ, chi phí vốn cao và / hoặc rất nhiều nợ.
C13. CHI PHÍ NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN
Các công ty phải chi nhiều tiền cho nghiên cứu và phát triển có nhược điểm cố hữu trong lợi thế cạnh tranh sẽ luôn đặt ưu thế kinh tế lâu dài của công ty vào rủi ro.
Warren không thích mục này.
Tâm’s notes:
- Toàn bộ chi phí phát sinh trong giai đoạn nghiên cứu không được ghi nhận là TSCĐ vô hình mà được ghi nhận là chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ. (Nội dung chuẩn mực kế toán số 04 – tài sản cố định vô hình)
C14. KHẤU HAO
Các công ty có lợi thế cạnh tranh bền vững thường có tỷ lệ chi phí khấu hao trên lợi nhuận gộp thấp hơn so với các công ty bị ảnh hưởng bởi các rắc rối của sự cạnh tranh gay gắt.
C15. CHI PHÍ LÃI VAY
Các công ty có lợi thế cạnh tranh bền vững thường ít có hoặc không có chi phí lãi vay.
Dù ở bất kỳ ngành nào thì công ty có tỷ lệ lãi vay phải trả so với thu nhập từ hoạt động kinh doanh thấp nhất cũng thường là công ty có lợi thế cạnh tranh.
C16. LÃI (LỖ) DO THANH LÝ TÀI SẢN VÀ KẾT QUẢ TỪ CÁC HOẠT ĐỘNG KHÁC
Vì đây là những sự kiện không lặp lại nên Warren tin rằng chúng nên được tách ra khỏi mọi phép tính lợi nhuận thuần của công ty trong việc xác định một công ty có lợi thế cạnh tranh bền vững hay không.
C17. LỢI NHUẬN TRƯỚC THUẾ
Ngoại trừ các khoản đầu tư được miễn thuế, tất cả lợi nhuận từ đầu tư đều được chào bán trên cơ sở trước thuế.
Một công ty có lợi thế cạnh tranh bền vững thật sự là một dạng “trái phiếu mang đặc điểm của cổ phiếu – quity bond”, có coupon hay tiền lãi mở rộng.
C18. THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP ĐÃ NỘP
Sau nhiều năm Warren đã học được rằng các công ty hay lừa dối IRS (cơ quan thuế vụ của Mỹ) thì cũng chịu khó lừa dối các cổ đông. Cái hay của một công ty có lợi thế cạnh tranh dài hạn là nó tạo ra rất nhiều tiền nên không cần phải đánh lừa bất cứ ai để có vẻ tốt đẹp.
C19. LỢI NHUẬN THUẦN
Con số lợi nhuận thuần trong một năm đơn lẻ rất vô nghĩa. Warren chỉ quan tâm liệu có sự nhất quán trong bức tranh lợi nhuận hay không và liệu xu hướng dài hạn có tăng trưởng không – cả hai có thể được xem là tương đương với “sự bền vững” của lợi thế cạnh tranh.
Lưu ý: do có các chương trình mua cổ phiếu quỹ nên xu hướng lợi nhuận thuần trong quá khứ của một công ty có thể khác với xu hướng thu nhập trên mỗi cổ phiếu.
Mặc dù hầu hết các phân tích tài chính đều tập trung vào con số thu nhập trên mỗi cổ phiếu, Warren lại nhìn vào lợi nhuận thuần của doanh nghiệp để xem điều gì thật sự xảy ra.
Một nguyên tắc đơn giản (và có các ngoại lệ ) là nếu một công ty đang cho thấy lịch sử lợi nhuận thuần trong quá khứ chiếm hơn 20% tổng doanh thu thì có nhiều khả năng là công ty đang được hưởng lợi từ một số lợi thế cạnh tranh dài hạn. Tương tự, nếu lợi nhuận thuần của một công ty luôn dưới 10% tổng doanh thu – hoặc có xu hướng như vậy – thì nghĩa là nó đang kinh doanh trong một ngành có tính cạnh tranh cao, khi không một công ty nào có lợi thế cạnh tranh bền vững. Tất nhiên nguyên tắc này chưa bao quát được các công ty có lợi nhuận thuần chiếm từ 10% đến 20% tổng doanh thu, vốn là các công ty có mỏ vàng trong kinh doanh sẵn sàng chờ khai thác mà chưa ai phát hiện ra.
Tâm’s notes:
- ROS > 20%: tốt (có ngoại lệ)
- ROS < 10%
- 10% ≤ ROS ≤ 20%: cần kiểm tra thêm
C20. THU NHẬP TRÊN MỖI CỔ PHIẾU (EPS)
Những gì Warren tìm kiếm là sự nhất quán và xu hướng tăng trưởng trong bức tranh thu nhập trên mỗi cổ phiếu qua mười năm.
VD1: Một báo cáo như sau về EPS (Đơn vị: USD)
| Năm 2008 | 2.95 |
| Năm 2007 | 2.68 |
| Năm 2006 | 2.37 |
| Năm 2005 | 2.17 |
| Năm 2004 | 2.06 |
| Năm 2003 | 1.95 |
| Năm 2002 | 1.65 |
| Năm 2001 | 1.6 |
| Năm 2000 | 1.48 |
| Năm 1999 | 1.3 |
| Năm 1998 | 1.42 |
Warren thấy rằng công ty có lợi nhuận ổn định với xu hướng tăng – một dấu hiệu tuyệt vời cho thấy công ty đang được xem xét có sở hữu một dạng lợi thế cạnh tranh dài hạn nào đó và đang kinh doanh trong lĩnh vực quen thuộc.
VD2: Các công ty mà Warren tránh xa thường có một bức tranh lợi nhuận thất thường như sau:
EPS các năm (Đơn vị: USD)
| Năm 2008 | 2.50 |
| Năm 2007 | -0.45 |
| Năm 2006 | 3.89 |
| Năm 2005 | -6.05 |
| Năm 2004 | 6.39 |
| Năm 2003 | 5.03 |
| Năm 2002 | 3.35 |
| Năm 2001 | 1.77 |
| Năm 2000 | 6.68 |
| Năm 1999 | 8.53 |
| Năm 1998 | 5.24 |
Báo cáo trên cho thấy xu hướng giảm, bị ngắt quãng bởi các khoản lỗ, giúp Warren biết rằng công ty này đang thuộc một ngành cạnh tranh khốc liệt có thể xảy ra bùng nổ và phá sản.